Trang Phục Truyền Thống Trung Quốc Qua Các Thời Kỳ

Trang Phục Truyền Thống Trung Quốc Qua Các Thời Kỳ

(HNM) - Trong những năm chiến tranh chống Pháp rồi chống Mỹ, đời sống nhân dân vô cùng khó khăn thiếu thốn nên ngoại trừ những gia đình tư sản, thương lái còn chút của ăn của để, mới có điều kiện chăm chút quần áo, còn đại đa số nhân dân lo đủ mặc là tốt lắm rồi. Người nhà quê dùng loại vải trúc bâu dệt thủ công, phần lớn nhuộm nâu cho sạch.

(HNM) - Trong những năm chiến tranh chống Pháp rồi chống Mỹ, đời sống nhân dân vô cùng khó khăn thiếu thốn nên ngoại trừ những gia đình tư sản, thương lái còn chút của ăn của để, mới có điều kiện chăm chút quần áo, còn đại đa số nhân dân lo đủ mặc là tốt lắm rồi. Người nhà quê dùng loại vải trúc bâu dệt thủ công, phần lớn nhuộm nâu cho sạch.

Trang phục xường xám tại một lễ hội ở Bắc Kinh, Trung Quốc. Ảnh: THX

Đối với nam giới, trang phục truyền thống tiêu biểu nhất là trường bào (áo dài) và mã quái, hai loại này đều là trang phục nam giới của dân tộc Mãn, cổ áo cao, tròn, ống tay áo hẹp, trong đó mã quái là vạt đôi, phần lớn đều có tay áo hình móng ngựa, còn trường bào là vạt lớn. Đôi khi cũng có hình thức mã quái và trường bào được nối liền lại, trong kiểu trang phục này, nửa thân dưới là trường bào được nối với vạt dưới phía trong của mã quái bằng cúc. Trường bào và mã quái tạo cảm giác thoải mái dễ chịu mà vẫn không kém phần trang trọng.

Từ sau Hội nghị APEC năm 2001 tổ chức tại Trung Quốc, các nguyên thủ quốc gia đều mặc “Đường trang” (trang phục truyền thống đời nhà Đường) rất sang trọng, làm dấy lên trào lưu mặc “Đường trang”. “Đường trang” đã trở thành tên gọi chung cho trang phục kiểu Trung Quốc, do các nước đều gọi nơi ở của người Hoa là “phố người Đường”. “Đường trang” hiện nay là sự cách điệu của mã quái đời nhà Thanh, kiểu trang phục này có những đặc điểm nổi bật, như: Cổ đứng, phần giữa cổ trước được may mở, kiểu cổ hình đứng; thân áo và tay áo liền với nhau, không có khe nối giữa tay áo và thân áo, chủ yếu là mặt phẳng; vạt đôi, cũng có thể xẻ bên; cúc áo hình vuông (cúc xoắn); chất liệu chủ yếu là vải thêu...

Ngoài ra, trang phục tại các khu vực và của các dân tộc khác ở Trung Quốc cũng có nét đặc sắc riêng. Ví dụ, yếm là một loại trang phục sát thân truyền thống của vùng Quan Trung và Thiểm Bắc, hình dáng giống như tà trước của áo lót, phía trên hai vạt có dây vải buộc vòng qua cổ, hai vạt phía dưới cũng có dây buộc vòng qua thắt lưng. Yếm giúp giữ ấm cho vùng bụng, tạo vẻ ngây thơ, hồn nhiên ở trẻ em khi mặc vào mùa hè. Yếm của trẻ thường thêu hình đầu hổ và “ngũ độc” (theo quan niệm dân gian Trung Quốc gồm bọ cạp, rắn, rết, thạch sùng và cóc, tương truyền hình ảnh này có tác dụng trừ tà), gửi gắm những lời chúc tốt đẹp của người lớn, cầu mong cho đứa trẻ lớn lên mạnh khỏe.

Ngoài ra, trang phục dân tộc Di-một dân tộc thiểu số ở Trung Quốc-cũng rất đặc sắc. Trang sức trên đầu của phụ nữ Di có ba loại là khăn xếp, khăn bao và mũ thêu hoa, trong đó trang sức trên đầu của phụ nữ khu vực Hồng Hà lại rực rỡ đủ loại, và quan niệm trang sức làm từ bạc là quý và đẹp nhất. Áo khoác là trang phục không thể thiếu của nam nữ dân tộc Di,với hai màu chính là xanh và xanh lam, chủ yếu làm từ da lông động vật, len, vải lanh và hàng cỏ dệt.

THANH SƠN (Theo Thường thức về văn hóa Trung Quốc)

*Mời bạn đọc vào chuyên mục Quốc tế xem các tin, bài liên quan.

Ngày 22/12/1944, tại khu rừng Trần Hưng Đạo (nay thuộc xã Tam Kim, huyện Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng), Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân (tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam ngày nay) được thành lập. Vào thời điểm này, trang phục của Đội chưa được thống nhất, tùy thuộc vào sự ủng hộ của nhân dân và khả năng của từng đội viên. Tại Lễ ra mắt nhân dân Thủ đô Hà Nội trong ngày Lễ Độc lập (02/9/1945), Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân được trang bị đồng phục. Đối với đội viên nam, được trang bị áo sơ mi cộc tay, vạt áo bỏ trong quần; mặc quần soóc, thắt lưng da to bản; chân đi giày da thấp cổ; đội mũ cát màu trắng. Đội viên nữ, mặc áo sơ mi cộc tay, có túi ở ngực, thắt lưng da to bản; mặc quần vải màu đen, gấu quần túm gọn; đi giày ba-ta; tóc cặp gọn; đội mũ rộng vành màu chàm. Mặc dù đã giành được chính quyền nhưng trang phục của Đội vẫn chưa được qui định thống nhất và được trang bị tùy thuộc vào khả năng của từng đơn vị, địa phương. Sau ngày toàn quốc kháng chiến (ngày 19/12/1946), các lực lượng vũ trang tản vào dân, dựa vào dân, mặc như dân. Ở miền Bắc, miền Trung chủ yếu mặc vải nâu: Áo cánh có hai túi, quần buộc túm ống... tùy theo khả năng tự túc. Chiến sĩ Khu V, mặc áo cánh, quần màu tro xám, chất liệu bằng vải sợi bông gọi là vải Sita. Ở miền Nam, bộ đội thường mặc áo bà ba đen, quần đùi (do đặc điểm thời tiết nóng, hoạt động trong địa hình nhiều kênh rạch, sình lầy). Riêng dép được làm bằng cao su, sử dụng được trong mọi điều kiện trời nắng, mưa, đường bùn lầy ... Đây là sáng tạo có giá trị lịch sử, giải quyết dép đi cho quân, dân ta trong suốt thời gian kháng chiến chống Pháp.

Từ năm 1950, bộ đội từng bước được trang bị đồng bộ gồm: áo sơ-mi 2 túi, dài tay, có cầu vai, quần âu, ở gấu quần có khuy và khuyết để cài túm gọn gàng; quần áo màu xanh lá cây hay màu cỏ úa; được trang bị mũ cứng cốt giấy ép và giày vải cao cổ màu xanh, đế cao su. Đến Chiến dịch Tây Bắc (1952), bộ đội được trang bị áo trấn thủ dài tay (như áo blu-dông bông) mặc mùa đông. Năm 1953, quân đội ta bắt đầu được trang bị trang phục thống nhất và đến ngày tiếp quản Thủ đô (10/1954), bộ đội được mang mặc đồng phục từ mũ, quân phục, giày, dép... Năm 1958, trang phục được trang bị đầy đủ hơn, gồm: quân hiệu, cấp hiệu, phù hiệu Lục quân, Hải quân, Không quân. Đến thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, ngoài bộ quân phục thường dùng, ngành Quân trang còn nghiên cứu, sản xuất ra một số loại quân trang nghiệp vụ. Riêng đối với màu nền quân hiệu, nửa trên màu đỏ, nửa dưới màu xanh da trời, ở giữa là ngôi sao vàng nổi (tượng trưng cho lá cờ giải phóng miền Nam). Sau khi đất nước thống nhất (1975), trang phục của quân đội từng bước được trang bị phù hợp với tính chất chiến đấu cao; phù hợp điều kiện thời tiết ở Việt Nam và khả năng kinh tế đất nước. Đến năm 1982, trang phục của Quân đội nhân dân Việt Nam được qui định thống nhất trong toàn quân, bao gồm: quân phục, giày, dép, mũ… Đối với quân phục K.82 có màu xanh lá cây hay màu cỏ úa. Loại quân phục K.82 của sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp có kiểu mặc trong mùa hè và mùa đông; quân phục cho hạ sĩ quan, binh sĩ, học viên, màu sắc theo từng quân binh chủng và lực lượng làm nhiệm vụ đặc biệt. Sau gần 20 năm  sử dụng, quân phục K.82 bộc lộ rõ những hạn chế đó là: chất liệu vải may và màu sắc chưa đồng bộ, chất lượng không ổn định; độ bền màu thấp và chưa phù hợp với môi trường hoạt động quân sự; chưa hòa nhập với các nước trong khu vực; màu sắc quân phục sĩ quan và chiến sĩ chưa hòa đồng (ví dụ: vải may quân phục chiến sĩ nam lục quân K.03 là vải Gabadin Peco màu xanh lá cây, nhưng quân phục chiến sĩ nam Phòng không-Không quân K.03 áo là vải Gabadin Peco màu xanh lá cây, quần là vải Gabadin Peco màu tím than... Bên cạnh đó, chúng ta mới cải tiến bộ quân phục, còn các loại trang phục khác, như: giày, mũ, phù hiệu, cấp hiệu…chưa được cải tiến, thay đổi, nên chưa bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất của trang phục quân đội. Trước yêu cầu xây dựng và phát triển quân đội trong giai đoạn cách mạng mới, thực hiện chủ trương của Thường vụ Đảng ủy Quân sự Trung ương (nay là Quân ủy Trung ương), Bộ Quốc phòng, Tổng cục Hậu cần chỉ đạo Cục Quân nhu nghiên cứu, cải tiến trang phục quân đội. Cục Quân nhu đã xây dựng kế hoạch và phát động cuộc thi sáng tác mẫu trang phục Quân đội nhân dân Việt Nam. Mục đích nhằm thiết kế, lựa chọn mẫu trang phục tiêu biểu, hiện đại, tạo tiền đề cho việc xây dựng kế hoạch cải tiến và hoàn thiện mẫu trang phục, góp phần xây dựng quân đội chính quy, từng bước hiện đại. Sau 6 tháng phát động cuộc thi (từ ngày 20/4-15/10/2005), Ban Tổ chức đã nhận gần 1.000 sản phẩm quân trang các loại với mẫu trang phục khác nhau. Trên cơ sở mẫu trang phục được chọn, Cục Quân nhu tiếp tục chuẩn bị, nghiên cứu và sản xuất thử nghiệm. Năm 2008, mẫu trang phục sĩ quan K.08 ra đời, cơ bản đáp ứng được tinh thần chỉ đạo của Quân ủy Trung ương và Thủ trưởng Bộ Quốc phòng. Mẫu trang phục K.08 mới, gồm: quân phục các loại, quân hiệu, cấp hiệu, phù hiệu, dây lưng, mũ kepi,…Màu sắc được qui định riêng cho bộ đội Lục quân, Hải quân, Phòng không-Không quân. Sự ra đời trang phục K.08 đã thực sự làm chuyển biến một bước về chất lượng trang phục của quân đội theo hướng chính quy, hiện đại, phù hợp với xu thế hội nhập quốc tế. Sau thời gian triển khai thử nghiệm, mẫu trang phục sĩ quan K.08 từng bước được điều chỉnh phù hợp. Tháng 01/2009, mẫu trang phục sĩ quan K.08 được triển khai sản xuất đồng loạt, quý 3/2009, cấp phát đầy đủ trong toàn quân. Đến ngày 22/12/2009, toàn quân đồng loạt mang mặc trang phục sĩ quan K.08 mới nhân kỷ niệm 65 năm Ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam- 20 năm ngày hội Quốc phòng toàn dân. Quân phục mới đã đáp ứng yêu cầu chỉ đạo của Bộ Quốc phòng đó là kế thừa truyền thống của quân đội ta, tự sản xuất trong nước nhưng có sự đổi mới cơ bản về chất lượng, kiểu dáng, màu sắc và tiện sử dụng. Mẫu quân phục mới đã hội tụ ba yếu tố: Chất lượng, kiểu dáng; màu sắc bền, đẹp hơn; tiện ích sử dụng, thể hiện tính thống nhất, chính quy, hiện đại. Sau quá trình điều chỉnh, mẫu trang phục quân đội cơ bản được hoàn thiện, đáp ứng được các yêu cầu đề ra, tạo nên nét đẹp chính quy, hiện đại của Quân đội nhân dân Việt Nam. Trang phục Quân đội nhân dân Việt Nam đã góp phần nâng cao tư thế, tác phong quân nhân, thể hiện phẩm chất người quân nhân cách mạng “bộ đội Cụ Hồ” của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Trong quan hệ ngoại giao, trang phục Quân đội ta đã hòa nhập với quân đội các nước trên thế giới về thẩm mỹ, sang trọng, hùng mạnh, hiện đại. Hiện nay, trang phục quân đội ta được quy định cụ thể gồm: trang phục thường dùng, lễ phục, trang phục dã ngoại, trang phục nghiệp vụ cho từng đối tượng quân, binh chủng, lực lượng và tính chất đặc thù của từng nhiệm vụ (trang phục nghiệp vụ bay cho phi công; phi công Hải quân; thủy thủ tầu ngầm; trang phục nghi lễ; trang phục biểu diễn…). Có thể nói, từ khi Quân đội ta thành lập đến nay, trang phục của bộ đội đã có nhiều thay đổi, liên tục được cải tiến về kiểu dáng, màu sắc, chất liệu… nhưng chưa bao giờ được trang bị đầy đủ, thống nhất, đồng bộ, hiện đại như hiện nay. Trang phục sĩ quan K.08 cùng với quân trang chiến sĩ K.03, K.07 đã tạo ra nét đẹp, đáp ứng yêu cầu xây dựng Quân đội ngày càng chính qui, hiện đại trong giai đoạn mới. Thượng tá, Ths NGUYỄN MINH TUẤN (Viện Nghiên cứu ƯDQN)

Cũng như Áo dài của Việt Nam, sườn xám của Trung Quốc hay Kimono của Nhật Bản… Hanbok là biểu tượng văn hóa lâu đời của Hàn Quốc và tượng trưng cho nét đẹp truyền thống của người dân đất nước này. Vậy Hanbok có những đặc điểm gì thú vị? Cùng Jellyfish tìm hiểu trong bài viết dưới đây nhé!

Hanbok (한복) là trang phục truyền thống được người Hàn Quốc mặc thường ngày từ cách đây khoảng 100 năm. Ngày nay, Hanbok truyền thống hầu như chỉ còn được mặc trong những dịp đặc biệt. Một số ngôi làng mang lối sống truyền thống vẫn mặc Hanbok vào những ngày thường.

Trong lịch sử của Hàn Quốc có hai bộ Hàn phục dành riêng cho giai cấp quý tộc và dân thường. Giai cấp quý tộc sử dụng trang phục may theo kiểu cách nước ngoài, trong khi dân thường mặc bộ trang phục có thiết kế truyền thống.

Các bộ Hanbok thường có màu sắc sặc sỡ rất đặc trưng với đường kẻ đơn giản và không có túi. Người Hàn Quốc quan niệm rằng con người được tạo ra bởi sự hòa hợp giữa trời – đất, nước – lửa, cây – gió. Từ những yếu tố đó mà Hanbok truyền thống được hình thành nên bởi sự kết hợp giữa đường nét tinh tế và sự phong phú của màu sắc tự nhiên. Mộc mạc nhưng vẫn thể hiện được sự sang trọng, Hanbok xuất hiện trong mọi hoạt động sống của người dân xứ sở kim chi.

Hanbok cho nam và nữ sẽ có cấu tạo khác nhau. Trong đó, Hanbok nữ gồm 2 phần chính là áo khoác bao phủ thân trên (Jeogori) và váy dài thắt eo cao (Jima). Nơ Otgoreum là phụ kiện điểm nhấn không thể thiếu của Hanbok, được buộc từ 2 miếng vải dài. Ngoài ra còn có tất trắng Beoson và một đôi giày có hình dáng giống chiếc thuyền.

Hanbok nam bao gồm áo khoác tay dài phủ thân trên (Jeogori), quần rộng (Baji) và áo choàng Durumagi. Durumagi có vạt áo dài đến ngang hoặc quá đầu gối, thường được mặc khi đi ra ngoài. Baji sẽ bó lại ở phần gấu quần. Phụ kiện đi kèm bao gồm mũ Gat, dây buộc Dalleyong và giày. Cả nam và nữ đều sẽ có một lớp Hanbok màu trắng mặc lót bên trong.

Quần Baji của nam ban đầu có ống hẹp để thuận tiện cho việc cưỡi ngựa và săn bắn. Tuy nhiên, khi nghề nông phát triển thì ống quần được thiết kế rộng hơn để phù hợp cho việc đồng áng. Quần ống rộng cũng khiến cho người mặc thoải mái hơn khi ngồi trên sàn thay vì quần ống hẹp.

Vải dùng để may Hanbok là loại vải Ramie, dệt bằng vật liệu tự nhiên và được nhuộm màu bằng các sản phẩm có sẵn trong tự nhiên như hoa hoặc vỏ cây, sau đó vắt nước rồi sấy khô. Tùy theo điều kiện thời tiết mà người ta sử dụng các loại vải khác nhau.

Ở những khu vực phía Bắc lạnh giá, chất liệu làm Hanbok sẽ dày dặn hơn và được nhồi thêm lông bên trong. Vào mùa hè, người Hàn sẽ sử dụng những chất vải mỏng và thoáng mát. Đặc biệt vào mùa thu, rất nhiều phụ nữ thích mặc quần áo làm từ lụa tơ mỏng vì khi chuyển động, quần áo sẽ phát ra tiếng sột soạt giống như âm thanh khi đi trên lá khô.

Có 5 sắc màu được nhiều người Hàn Quốc ưa chuộng là đỏ, xanh da trời, vàng, đen và trắng. Đó là 5 màu chủ yếu theo triết lý âm dương và ngũ hành của phương Đông. Màu trắng tượng trưng cho sự trong sáng, lòng chính trực và là màu sắc được sử dụng nhiều nhất cho Hanbok. Tầng lớp quý tộc có thể mặc trang phục màu trắng pha thêm các màu đỏ, vàng, xanh nước biển hoặc đen.

Trang phục Hanbok cho trẻ em bao gồm áo dài màu xanh (Cheonbok) mặc ra ngoài áo choàng Durumangi và đi kèm với chiếc mũ đen có dải sau. Những từ ngữ và biểu tượng liên quan đến trẻ nhỏ sẽ được thêu lên trên vải. Ban đầu, loại Hanbok này chỉ dành cho con trai của tầng lớp quý tộc (Yangban). Về sau, trang phục này được dùng cho mọi tầng lớp và cho cả các bé gái nhưng kiểu dáng sẽ khác nhau.

Ngày nay, Hanbok cách tân được các nhà thiết kế sáng tạo dựa trên kiểu dáng truyền thống, mang tới cảm giác hiện đại và đa dạng mẫu mã, màu sắc hơn. Hai loại Hanbok cách tân phổ biến nhất là Gaeryang và Saenghwal. Cả hai loại trang phục này đều có sự thay đổi về chất liệu và cấu tạo.

Những bộ Hanbok được cô dâu chú rể mặc trong ngày cưới sẽ có thiết kế cầu kỳ, tinh xảo và nhiều chi tiết phức tạp hơn Hanbok truyền thống.

Trang phục của chú rể bao gồm quần rộng Baji, áo khoác ngắn Jeogori và áo dài Dopo choàng bên ngoài. Cuối cùng là một lớp áo Dallyeong dài , rộng mặc ngoài cùng. Phụ kiện đi kèm bao gồm đai lưng và mũ bờm ngựa.

Trang phục của cô dâu sẽ có phần cầu kỳ hơn. Bao gồm váy lót Sokjeoksam và áo lót Darisokgot, được may từ những chất liệu mỏng, mềm mại. Sau đó, cô dâu sẽ khoác một lớp áo rộng màu xanh hoặc vàng. Ngày xưa, những người phụ nữ là dân thường sẽ mặc váy hai tầng màu đỏ. Còn cô dâu thuộc tầng lớp quý tộc thì thường mặc một chiếc váy dài, rộng, được trang trí bởi những hoa văn dát vàng (Seuranchima), và thêm chiếc áo khoác thêu hoa văn màu đỏ tía xung quanh cổ và tay áo.

Cũng như chú rể, cô dâu sẽ khoác thêm một chiếc áo choàng rộng, dài, xẻ hai bên nách bên ngoài lễ phục. Phần tay áo được gắn thêm một lớp vải màu trắng.

Theo thời gian, Hanbok được cách tân ngày càng hiện đại và đa dạng song vẫn luôn giữ được những nét đặc trưng của một bộ trang phục truyền thống. Hy vọng bài viết trên đã giúp bạn hiểu hơn về Hanbok – một trong những nét đẹp truyền thống lâu đời của người dân xứ sở kim chi.

👉👉 Jellyfish Việt Nam – Du học trọn uy tín, chọn Jellyfish

✦ Trụ sở chính: Tầng 13, tòa nhà CMC, 11 Duy Tân, Cầu Giấy, Hà Nội

✦ Văn phòng chi nhánh: Tòa nhà Sholega, 275 Lạch Tray, Ngô Quyền, Hải Phòng