Tiếng Dân Tộc Thái Sơn La

Tiếng Dân Tộc Thái Sơn La

Theo kết quả cuộc tổng điều tra dân số năm 2019, toàn tỉnh Yên Bái có 61.964 người Thái sinh sống tập trung tại 9 huyện, thị xã, thành phố. Trong đó có 30.611 nam, 31.353 nữ, tập trung đông nhất tại Thị xã Nghĩa Lộ (15.161 người); các huyện: Văn Chấn (37.638 người); Trạm Tấu (4.433 người); Mù Cang Chải (3.186 người).

Theo kết quả cuộc tổng điều tra dân số năm 2019, toàn tỉnh Yên Bái có 61.964 người Thái sinh sống tập trung tại 9 huyện, thị xã, thành phố. Trong đó có 30.611 nam, 31.353 nữ, tập trung đông nhất tại Thị xã Nghĩa Lộ (15.161 người); các huyện: Văn Chấn (37.638 người); Trạm Tấu (4.433 người); Mù Cang Chải (3.186 người).

Nguyên tắc tiếp nhận, trả kết quả thủ tục hành chính của Ủy ban nhân dân tỉnh Sơn La.

- Tiếp nhận hồ sơ và trả kết quả tại một đầu mối duy nhất là Trung tâm Hành chính công thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh Sơn La.

- Công khai, minh bạch và đảm bảo giải quyết thủ tục hành chính nhanh chóng, thuận tiện cho tổ chức, cá nhân.

- Nhân viên thực hiện TTHC hướng dẫn, yêu cầu bổ sung, điều chỉnh nội dung, gia hạn thời gian giải quyết hồ sơ cho tổ chức, cá nhân được thực hiện theo nguyên tắc một lần, cụ thể, đầy đủ bằng văn bản.

- Công chức tiếp nhận thủ tục hồ sơ tại Trung tâm Hành chính công thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh Sơn La không được yêu cầu tổ chức, cá nhân nộp thêm bất kỳ một loại giấy tờ nào khác ngoài danh mục thành phần hồ sơ theo quy định tại Quyết định của UBND tỉnh Sơn La về công bố Bộ TTHC thuộc thẩm quyền giải quyết của UBND tỉnh, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Sơn La, các sở, ban, ngành cấp tỉnh áp dụng trên địa bàn tỉnh.

Địa chỉ, số điện thoại Ủy ban nhân dân tỉnh Sơn La

Vui lòng xem địa chỉ, số điện thoại UBND tỉnh Sơn La cuối bài viết

Giới thiệu dân tộc Thái Việt Nam

Người Thái có cội nguồn ở vùng Đông Nam Á lục địa, tổ tiên xa xưa của người Thái có mặt ở Việt Nam từ rất sớm. Người Thái ở Việt Nam được chia thành nhiều nhóm địa phương và có nguồn gốc cũng như sự có mặt ở Việt Nam không hoàn toàn giống nhau. Theo các nhà dân tộc học, người Thái ở Việt Nam có nhiều tộc người khác nhau, nhưng chủ yếu là hai nhóm chính: Thái Trắng và Thái Đen.

Người Thái ở Việt Nam thường gọi là Tay/Tày/Thay/Thày tùy thuộc vào cách phát âm của từng khu vực. Các nhóm, ngành lớn của người Thái tại Việt Nam bao gồm: Tay Đón (Thái Trắng), Tay Đăm (Thái Đen), Tay Đèng (Thái Đỏ) và Tay Dọ (Thái Yo) cùng một số nhóm khác nhỏ hơn. Họ đã có mặt ở miền Tây Bắc Việt Nam trên 1200 năm, là hậu duệ của những người Thái đã di cư từ vùng đất thuộc tỉnh Vân Nam, Trung Quốc.

Nguyên tắc phối hợp giải quyết thủ tục hành chính tại Trung tâm Hành chính công thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh Sơn La

- Quy trình chuyển, giao hồ sơ, lấy ý kiến, tham gia ý kiến giữa nhân viên Trung tâm Hành chính công tỉnh, các phòng chuyên môn thuộc Sở, Ban, Ngành được thực hiện bằng cách chuyển trực tiếp (có Phiếu kiểm soát quá trình giải quyết hồ sơ, Giấy tiếp nhận và hẹn trả kết quả) và phần mềm điện tử.

- Lãnh đạo các phòng chuyên môn, lãnh đạo Sở, Ban, Ngành thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh Sơn La không thụ lý hoặc giải quyết các hồ sơ khi không có Phiếu kiểm soát quá trình giải quyết hồ sơ kèm theo hoặc chưa được cập nhật tại phần mềm điện tử.

- Trong quá trình giải quyết hồ sơ thì cán bộ, công chức làm việc tại các phòng chuyên môn của Sở, Ban, Ngành thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh Sơn La và đơn vị liên quan không tiếp xúc với tổ chức, cá nhân đang có nhu cầu giải quyết TTHC dưới bất kỳ hình thức nào (trừ trường hợp pháp luật có quy định).

Đặc điểm kinh tế dân tộc Thái Việt Nam

Người Thái có truyền thống nông nghiệp phong phú và có nhiều kinh nghiệm trong việc đào mương, dựng đập, bắc máng lấy nước để làm ruộng. Lúa nước là nguồn lương thực chính của họ, đặc biệt là lúa nếp. Ngoài ra, họ cũng trồng nhiều loại cây khác như hoa màu, trái cây, rau củ… để đa dạng hoá nguồn thực phẩm.

Ngoài nông nghiệp, từng gia đình người Thái còn chăn nuôi gia súc, gia cầm, đan lát, dệt vải, làm đồ gốm… Sản phẩm nổi tiếng của họ là vải thổ cẩm với những hoa văn độc đáo, màu sắc rực rỡ và bền đẹp. Điều này thể hiện khả năng thủ công của người Thái, đồng thời đóng góp vào sự đa dạng hóa văn hóa và kinh tế của địa phương.

Trình tự tiếp nhận, giải quyết, trả kết quả TTHC của UBND tỉnh Sơn La

Quy trình, hướng dẫn tiếp nhận hồ sơ, giải quyết hồ sơ và trả kết quả thủ tục hành chính được theo dõi, cập nhật thường xuyên tại phần mềm điện tử.

Địa chỉ, danh bạ số điện thoại Ủy ban nhân dân tỉnh Sơn La

Địa chỉ: Khu Trung tâm hành chính tỉnh, phường Chiềng Cơi, thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La

Điện thoại: (0212) 3852010- 3852011

Địa chỉ website: http://sonla.gov.vn

Quy định tiếp nhận, giải quyết và trả kết quả TTHC của Ủy ban nhân dân tỉnh Sơn La

TTHC của Ủy ban nhân dân tỉnh Sơn La đã được cải thiện đáng kể trong những năm qua nhằm hỗ trợ người dân một cách tối ưu nhất. Sau đây, xin mời quý khách tham khảo quy trình tiếp nhận, giải quyết hồ sơ và trả kết quả của Ủy ban nhân dân tỉnh Sơn La.

Địa chỉ, số điện thoại Ủy ban nhân dân tỉnh Sơn La

Quý khách có nhu cầu liên hệ công việc, vui lòng tham khảo danh bạ số điện thoại Ủy ban nhân dân tỉnh Sơn La, địa chỉ UBND tỉnh Sơn La và các thông tin liên quan đến thủ tục hành chính trong bài viết sau.

Dân số và cư trú của dân tộc Thái

Dân số: Theo số liệu của cuộc điều tra 53 dân tộc thiểu số năm 2019, dân tộc Thái có 1.820.950 người, trong đó có 910.202 nam và 910.748 nữ.

Cư trú: Người Thái là một trong những dân tộc thiểu số đông đảo ở Việt Nam, chủ yếu cư trú tại các tỉnh sau đây: Hòa Bình, Lai Châu, Điện Biên, Sơn La, Lào Cai, Yên Bái, Thanh Hóa, và Nghệ An. Tuy nhiên, quá trình di cư và phát triển kinh tế đã mở rộng địa bàn cư trú của người Thái ra các vùng khác, bao gồm cả các tỉnh thuộc khu vực Tây Nguyên.

Người Thái sử dụng ngôn ngữ Thái, một trong những ngôn ngữ của người Thái trong khu vực Đông Nam Á. Ngoài ra, người Thái ở Việt Nam cũng thường sử dụng tiếng Việt trong giao tiếp hàng ngày và trong các hoạt động xã hội.

Người Thái sở hữu ngôn ngữ và văn tự độc đáo. Họ thuộc nhóm nói tiếng Thái trong ngữ hệ Kra-Dai (hay còn gọi là Tai-Kadai), được xếp vào họ ngôn ngữ cùng tên. Các ngôn ngữ Thái có tỷ lệ từ vựng chung cao do có cùng cội nguồn.

Các ngôn ngữ Thái chủ yếu là ngôn ngữ đơn âm tiết, có thanh điệu. Cú pháp chủ yếu là SVO (chủ ngữ, vị ngữ, bổ ngữ). Trừ những câu mệnh lệnh, ít có trường hợp đảo ngược thứ tự này. Tại Việt Nam, có năm vùng thổ ngữ Thái gồm:

Văn tự của người Thái có nguồn gốc từ hệ chữ Sanskrit của Ấn Độ. Trong lịch sử, chữ Thái cổ ở Việt Nam được thống nhất về cách cấu tạo và đọc, nhưng lại có tám loại ký tự khác nhau, bao gồm: chữ Thái Đen, chữ Thái Trắng Mường Lay, chữ Thái Trắng Phong Thổ, chữ Thái Trắng Phù Yên, chữ Thái Trắng Mộc Châu, Mai Châu, Đà Bắc, chữ Thái Lai Xư (Tay Thanh), chữ Thái Lai Pao (Tương Dương, Nghệ An), chữ Thái Lai Tay hay chữ Thái Quỳ Châu (Quế Phong, Quỳ Châu, Quỳ Hợp thuộc tỉnh Nghệ An).

Từ năm 1954 đến 1969, chữ Thái ở khu tự trị Tây Bắc được cải tiến, thống nhất và đổi tên thành Chữ Thái Việt Nam thống nhất. Từ tháng 5/2008, chữ Thái cải tiến mới được chính thức đưa vào sử dụng, được gọi là chữ Thái Việt Nam.

Chữ Thái Việt Nam (Tai Viet) được mã hóa trong khu mã Unicode U+AA80..U+AADF , tuy nhiên, các font chữ phổ biến hiện nay trong máy tính không hỗ trợ hiển thị các ký tự này.

Đặc điểm văn hóa, phong tục dân tộc Thái Việt Nam

Ngày nay, gạo tẻ đã trở thành nguồn lương thực chính trong ẩm thực của người Thái. Tuy nhiên, gạo nếp vẫn được coi là món ăn truyền thống của họ. Để chế biến gạo nếp, người Thái thường ngâm gạo qua đêm, sau đó đem đun lên và chế biến thành xôi. Món ăn này thường được kết hợp với ớt giã hoà muối, tỏi, các loại rau thơm, mùi, lá hành và thịt của các con vật ăn cỏ thuộc loài nhai lại như gan gà luộc chín, ruột cá, cá nướng… Tất cả được kết hợp lại gọi là món chéo.

Các món ăn của người Thái rất đa dạng, bao gồm cả các loại thịt của gia súc, gia cầm và các món cá, cua, ghẹ, tôm. Thịt được chế biến thành nhiều món như nộm, nhúng (lạp, cỏi), ướp muối, thính làm mắm, nướng, lùi, đồ, sấy, canh, xào, rang, luộc… Người Thái ưa thích các vị cay, chua, đắng, chát, bùi và ít sử dụng các vị ngọt, lợ, đậm, nồng. Trong ẩm thực của họ, nước mắm và rượu cần là hai loại gia vị không thể thiếu.

Ngoài ra, người Thái cũng có thói quen hút thuốc lào bằng điếu ống tre hoặc nứa và châm bằng mảnh đóm tre ngâm hoặc khô nỏ. Trước khi hút, họ thường có thói quen mời các vị khách xung quanh như trước khi ăn.

Trước đây, người Thái theo chế độ hôn nhân mua bán và theo truyền thống, việc lấy vợ và lấy chồng phải qua nhiều bước, trong đó có hai bước chính:

Tuy nhiên, hiện nay, việc lấy vợ và lấy chồng của người Thái đã thay đổi nhiều, phù hợp với tình hình xã hội hiện đại.

Lễ tang của người Thái gồm hai bước chính:

Người Thái Đen thường tổ chức lễ cúng tổ tiên vào tháng 7 hoặc tháng 8 âm lịch hàng năm. Trong lễ cúng, người Thái Đen sẽ đưa các món đồ và thức ăn lên bàn cúng, gọi là “bàn tổ”, để tưởng nhớ và tôn vinh tổ tiên của mình.

Người Thái Trắng lại tổ chức lễ tết theo lịch âm. Trong dịp này, họ thường dùng các loại thực phẩm truyền thống như bánh chưng, bánh giầy, thịt lợn, gà, và rượu để cúng tết và chúc mừng.

Còn bản Mường thì tổ chức nhiều loại lễ cúng khác nhau, bao gồm cúng thần đất, thần nước, thần núi và các linh hồn của người đã khuất. Những lễ cúng này thường được tổ chức vào các dịp đặc biệt hoặc vào các ngày lễ quan trọng.

Các nhóm người Thái, bao gồm Thái Trắng và Thái Đen, có nhiều điểm chung trong trang phục hằng ngày, tuy nhiên vẫn có nét đặc trưng riêng để phân biệt. Phụ nữ Thái Trắng thường mặc áo cánh ngắn màu sáng, trắng, có thể được cài cúc bạc tạo hình bướm hoặc ong; váy thường màu đen không có hoa văn. Khăn đội đầu bằng vải chàm dài khoảng hai mét.

Mặc dù có những điểm khác biệt trong trang phục, nhưng cả phụ nữ Thái Trắng và Thái Đen đều rất tinh tế và tỉ mỉ trong cách ăn mặc, tạo nên nét đẹp riêng của mỗi nhóm.

Ở Việt Nam, có hai nhóm Thái lớn là Thái Trắng và Thái Đen, cùng với một vài nhóm nhỏ khác. Nhà của người Thái Trắng có nhiều đặc điểm giống với nhà của người Tày-Nùng, trong khi nhà của người Thái Đen lại gần với nhà của các dân tộc Môn-Khơ Me.

Nhà Thái Đen có nóc hình mai rùa, chỏm đầu đốc có khau cút với nhiều kiểu khác nhau. Hai gian hồi để trống và có lan can bao quanh. Khung cửa ra vào và cửa sổ được trang trí theo nhiều kiểu khác nhau.

Bộ khung nhà của người Thái Đen có hai kiểu cơ bản là khứ tháng và khay điêng. Khay điêng tương tự như khứ kháng của người Tày-Nùng, nhưng có thêm hai cột để mở rộng. Cách bố trí trên mặt bằng của nhà Thái Đen khá độc đáo: mỗi gian đều có tên riêng, và trên mặt sàn được chia thành hai phần: một phần dành cho nơi ngủ của các thành viên trong gia đình và một nửa dành cho bếp và tiếp khách nam.

Tối 7/5, tại Quảng trường Tây Bắc, thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La đã tổ chức trọng thể Lễ kỷ niệm 60 năm ngày Bác Hồ và Đoàn công tác của Trung ương về thăm, nói chuyện với cán bộ, chiến sỹ và đồng bào các dân tộc Tây Bắc tại Sơn La (7/5/1959 - 7/5/2019) và khánh thành Tượng đài “Bác Hồ với đồng bào các dân tộc Tây Bắc."

Tượng đài “Bác Hồ với các dân tộc tỉnh Tây Bắc” tại Quảng trường Tây Bắc, tỉnh Sơn La

Tham dự Lễ kỷ niệm, có ông Trần Quốc Vượng, Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư; bà Trương Thị Mai, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Dân vận Trung ương; các đồng chí Ủy viên Trung ương Đảng; lãnh đạo các bộ ngành, đoàn thể, các cơ quan Trung ương; lãnh đạo các tỉnh: Yên Bái; Lai Châu; Lào Cai; Ninh Bình; Hoà Bình; Điện Biên; Nam Định… Cùng đông đảo cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang, nhân dân các dân tộc tỉnh Sơn La và các tỉnh Tây Bắc.

Đây là sự kiện chính trị đặc biệt, là dịp để cán bộ, chiến sỹ và đồng bào các dân tộc tỉnh Sơn La và các tỉnh Tây Bắc thể hiện lòng tưởng nhớ, thành kính, biết ơn vô hạn đối với vị cha già kính yêu của dân tộc. Người đã dành trọn cuộc đời mình cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc; khẳng định tin tưởng tuyệt đối vào đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam, tiếp tục học tập và làm theo tư tưởng đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.

Trong bài diễn văn kỷ niệm, Bí thư Tỉnh ủy Sơn La Hoàng Văn Chất nêu rõ: Cách đây tròn 60 năm, nhân dịp kỷ niệm 5 năm chiến thắng Điện Biên Phủ, 4 năm thành lập Khu tự trị Thái - Mèo, ngày 7/5/1959, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân các dân tộc Tây Bắc vinh dự được đón Bác Hồ về thăm và làm việc.

Tại Lễ đài sân vận động Thuận Châu, là trung tâm hành chính Khu tự trị Thái - Mèo lúc bấy giờ, Chủ tịch Hồ Chí Minh thân mật nói chuyện với đồng bào, bộ đội và cán bộ. Người thay mặt Đảng và Chính phủ khen ngợi những thành tích của quân, dân Tây Bắc.

Trong những năm kháng chiến đã anh dũng bảo vệ bản mường, đại thắng giặc Pháp ở Điện Biên Phủ, góp phần giành lại độc lập cho Tổ quốc và từ ngày hòa bình lập lại đã ra sức tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm, cải thiện đời sống, giữ gìn trật tự an ninh.

Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn đồng bào, cán bộ, bộ đội toàn khu, nhiệm vụ thi đua tăng gia sản xuất và thực hành tiết kiệm, xây dựng đời sống mới ấm no, hạnh phúc… Bác chúc đồng bào, cán bộ, chiến sỹ khu tự trị “Người người mạnh khỏe, đoàn kết chặt chẽ, hăng hái thi đua, thành công vui vẻ."

Lời dạy của Bác mộc mạc, cụ thể, thiết thực, mọi người ai cũng thấy ấm lòng, dễ hiểu. Những lời dạy ân tình, sâu sắc của Bác đã trở thành tư tưởng, là hành động cách mạng soi đường, dẫn dắt Đảng bộ và nhân dân các dân tộc Tây Bắc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Đáp ứng nguyện vọng tha thiết của đồng bào các dân tộc Tây Bắc, Trung ương Đảng và Chính phủ đồng ý cho tỉnh Sơn La xây dựng Tượng đài "Bác Hồ với đồng bào các dân tộc Tây Bắc" tại Sơn La, để ghi dấu sự kiện lịch sử ngày Bác Hồ về thăm Tây Bắc tại Sơn La. Công trình đã được các tỉnh Tây Bắc nhất trí cao về mẫu phác thảo và tham gia trồng cây, hỗ trợ kinh phí; tỉnh Lào Cai đóng góp đồng đúc tượng Bác Hồ. Công trình hoàn thành là niềm cổ vũ to lớn đối với nhân dân các dân tộc Tây Bắc.

Tại buổi lễ, Thường trực Ban Bí thư Trần Quốc Vượng, cùng lãnh đạo một số ban, ngành Trung ương và lãnh đạo tỉnh Sơn La đã thực hiện nghi lễ Khánh thành Tượng đài “Bác Hồ với đồng bào các dân tộc Tây Bắc".

Tượng đài Bác Hồ được đúc bằng đồng, cao 7,9 m, thể hiện được thần thái, trang phục của Bác Hồ vào thời điểm lịch sử Bác về thăm, nói chuyện với đồng bào, cán bộ, chiến sĩ các dân tộc Tây Bắc tại tỉnh Sơn La. Bệ tượng bằng bê tông cao 4,7 m, được ốp bằng đá xanh Thanh Hóa. Bức phù điêu bằng đá xanh Thanh Hóa, điểm cao nhất là 18 m, dài 54 m, mô phỏng theo hình tượng bông hoa Ban cách điệu có 5 cánh, loại hoa đặc trưng của núi rừng Tây Bắc; mặt trước khắc họa một số hình ảnh đặc trưng của 6 tỉnh Tây Bắc; mặt sau thể hiện một số lễ hội văn hóa, thể thao truyền thống, kiến trúc, cảnh quan nổi bật của tỉnh Sơn La.

Tượng đài Bác là công trình nghệ thuật đặc sắc, thể hiện tình cảm của Bác với đồng bào các dân tộc Tây Bắc và tình cảm của đồng bào các dân tộc Tây Bắc với Bác Hồ muôn vàn kính yêu.

Thường trực Ban Bí thư Trần Quốc Vượng đề nghị tỉnh Sơn La phải thường xuyên chăm lo, bảo vệ, làm đẹp Tượng đài Bác, để nơi đây là công trình lịch sử, văn hóa rợp bóng cây xanh, đậm sắc các màu hoa của Tây Bắc; phối hợp với các tỉnh Tây Bắc phát huy giá trị của Tượng đài, tổ chức tốt hoạt động giáo dục truyền thống về cuộc đời, sự nghiệp và tư tưởng của Bác với nhân dân Tây Bắc, nhất là thế hệ trẻ.

Thường xuyên tuyên truyền cho cán bộ, giáo viên, nhân viên, học sinh, lưu học sinh nhà trường về dịch bệnh và các biện pháp phòng bệnh