(Lichngaytot.com) Cung Tật Ách là gì? Cung này phản ánh điều gì về bệnh tật và tai ách mà mỗi người gặp phải trong đời? 14 chính tinh tọa thủ mang tới tác động gì cho cung Tật Ách?
(Lichngaytot.com) Cung Tật Ách là gì? Cung này phản ánh điều gì về bệnh tật và tai ách mà mỗi người gặp phải trong đời? 14 chính tinh tọa thủ mang tới tác động gì cho cung Tật Ách?
Thiên Phủ thủ cung Tật Ách, thông thường chủ về bệnh dạ dày, tê phù chân, phù thũng, tê liệt do thấp khí, cổ trướng.
Nếu hội chiếu với Hoa Cái, Thiên Tài, củ về các chứng buồn nôn, rối loạn nhịp tim.
Thiên Phủ có Liêm Trinh hội chiếu, chủ về chứng thấp hỏa.
Thiên Phủ có Thiên Tướng, Hữu Bật hội chiếu, chủ về vị hàn, đau dạ dày.
Thiên Phủ có Thất Sát, Thiên Hình hội chiếu, chủ về bị thương.
Sao Thái Âm ở cung Tật Ách, thường chủ về âm hư, biểu hiện là tiêu chảy, kiết lị, phù chân, âm lũ, hoặc tì vị và tiểu trường thấp nhiệt.
Nếu gặp các sao đào hoa, như Hồng Loan, Thiên Hỷ, Hàm Trì, Đại Hao, Âm Sát, Thiên Hư, nam mệnh chủ về thận hư, tinh lãnh. Nữ mệnh chủ về lãnh cảm.
Nếu gặp các sao Sát, Hình, kị, thì âm phần rất hao tổn, vì vậy dẫn đến khí huyết bất hòa gây nên các bệnh chứng khó trị như tiểu đường, thủy thũng, cổ trướng và bại liệt.
Thái Âm gặp Thiên Đồng, chủ về bệnh mắt và các bệnh có đốm. Nếu gặp thêm Văn Khúc Hóa Kỵ thì chủ về bệnh sởi.
Thái Âm gặp Thiên Cơ, cũng chủ về bệnh kín của phụ nữ. Nếu Thái Âm Hóa Kỵ, thì chủ về gan vượng gây nên bệnh. Nếu Thiên Cơ Hóa Kỵ, gặp thêm sát tinh, Thiên Hư, Âm Sát, bản mệnh thần kinh mẫn cảm, nam mệnh chủ về dương suy, nữ mệnh chủ về âm suy.
Sao Tham Lang ở cung Tật Ách, chủ về bệnh gan, bệnh sinh dục.
Hễ Tham Lang đồng độ hoặc đối nhau với Tử Vi, hay đồng độ hoặc đối nhau với Liêm Trinh, đều có khuynh hướng bệnh sinh dục. Nhưng nếu có Hỏa Tinh, Linh Tinh đồng độ thì đều chủ về bệnh gan.
Nếu có Kình Dương, Hỏa Tinh cùng bay đến, hoặc Đà La, Linh Tinh cùng bay đến, đều chủ về bệnh máu huyết.
Tham Lang gặp Liêm Trinh Hóa Kị, nữ mệnh chủ về băng huyết, nam mệnh chủ về di tinh, nặng thì liệt dương hoặc xuất tinh sớm. Gặp Thiên Hư, Âm Sát, Thiên Thương thì càng dễ mắc bệnh.
Tham Lang đối nhau với Vũ Khúc, nếu có Hỏa Tinh đồng độ với Tham Lang hoặc Vũ Khúc, dễ tổn thương kinh phế.
Tham Lang đồng cung với Văn Khúc Hóa Kị, chủ về bệnh tật ở mắt, thêm sát tinh thì chủ về xảy ra sự cố bất trắc mà bị thương, tai nạn sông nước.
Cự Môn thủ cung Tật Ách. chủ về bệnh tì vị và bệnh tiêu hóa, cũng chủ về bệnh đường hô hấp, cơ thể gầy ốm, ngầm tổn hại.
Nếu gặp thêm Lộc Tồn hoặc Hóa Lộc thì chủ về ăn uống thiếu khoa học gây ra bệnh dạ dày.
Nếu gặp Kình Dương, Đà La, Hóa Kỵ, Thiên Hình, chủ về bệnh ung thu dạ dày, ung thư thực quản.
Nếu gặp Thiên Hư, Đại Hao, chủ về bệnh âm hư hoặc bệnh phổi. Nếu gặp thêm các sao Sát, Hình, Kỵ thì chủ về ung thư phổi.
Cự Môn đồng cung với Thiên Cơ, chủ về can vị bất hòa, chứng ợ chua, buồn nôn hoặc tâm khí uất kết, đau tức ngực.
Cự Môn và Thái Dương đồng độ, chủ về huyết áp cao.
Cự Môn và Thiên Đồng đồng độ, chủ về bệnh thần kinh tọa hoặc hắc lào, ghẻ lở. Nếu các sao Sát, Kỵ, hình, hao đều hội hợp, hơn nữa, còn có Thiên Hình, Kình Dương và Thiên Lương đồng độ ở hai cung Mão hoặc Dậu thì chủ về ung thư thực quản, hoặc ung thư xương.
Phần này, liệt kê theo nhóm Bệnh, sau đó kể ra các tinh hệ có thể xảy ra những bệnh tật này. Hễ tinh hệ này ở Cung Mệnh, cung Tai Ách (có lúc bệnh thuộc hệ thần kinh và bệnh mãn tính ứng nghiệm ở Cung Phúc Đức), bất kể ở Lưu niên, ở Đại hạn, hay ở tinh bàn nguyên cục đều có thể ứng nghiệm.
Về nguyên tắc luận đoán, vẫn cần chú ý tính chất của cung Tai Ách.
Ví dụ như Tham Lang có kèm Sát tinh ở cung Tai Ách, tính chất có thể là bệnh gan, cũng có thể là bệnh thận. Đến Đại hạn, cung hạn Tai Ách gặp Liêm Trinh – Thiên Tướng, mà Thiên Tướng bị cách “Hình Kị giáp Ấn”, đây là điềm tượng chủ về bệnh Thận hoặc bệnh về tình dục. Do Tham Lang ở nguyên cục có tính chất chủ về bệnh thận, nên đến Đại hạn này chủ về ứng nghiệm.
Các tinh hệ dưới đây, thông thường đều phải gặp các Sát – Kỵ – Hình – Hao mới đúng, và xem các sao hội hợp cát hung nhiều ít mà định bệnh tình. Sau đó tra các Lưu niên trong Đại hạn này, sẽ tìm ra Năm phát bệnh. Nguyên tắc luận đoán này, mới nghe thật đơn giản, nhưng nhiều Danh gia Đẩu số còn không biết. Bạn đọc có thể dựa vào nguyên tắc này để thực tập, kinh nghiệm ngày càng phong phú, ắt sẽ có thành tựu.
Các tổ hợp sao chủ yếu là Thiên Cơ, Thái âm, Thiên đồng. Cũng có thể nói tổ hợp cách “Cơ Nguyệt Đồng Lương” rất dễ bị bệnh liên quan đến hệ thần kinh, như suy nhược thần kinh, tâm thần, thiểu năng chí tuệ, .v.v…
Nhiều lúc bệnh mang tính suy nhược thần kinh có liên quan đến “Thiên đồng – Cự Môn”. Nếu”Tử Vi – Tham Lang” thủ cung Tai Ách gặp sao Đao hoa quá nặng, thì lúc đến hạn “Cơ Nguyệt Đồng Lương” thủ cung Tai Ách, thường dễ mắc chứng bệnh này, biểu hiện là di tinh, xuất tinh sớm. Ở đây không cần xem Cự Môn.
Người bị bệnh tâm thần. Chủ yếu xem Thiên Cơ, đông y gọi là Can phong.
Nếu “Thiên Cơ Thái âm” đồng cung với Hỏa Đà, còn gặp thêm Địa Không, Địa Kiếp, là rối loạn Tâm thần kinh (hysteria), thường có biểu hiện kích động, cử chỉ thất thường. Nhưng cần phải hội Thiên Lương và có Thái Dương không có nhập miếu tương chiếu, mới ứng nghiệm.
Bệnh viêm não Nhật bản-B, cũng có liên quan với tinh hệ “Cơ Nguyệt Đồng Lương”, năm phát bệnh là cung hạn Tai Ách Thiên Lương lạc hãm, hội chiếu Hỏa tinh, Linh tinh. Phỉ liêm, Âm sát. Nhóm tinh hệ này khác với nhóm tinh hệ chủ về bệnh Hysteria nên cẩn thận phân biệt.
Tinh hệ chủ về viêm màng não đại khái tương tự với tinh hệ chủ về chủ về viêm mang não Nhật bản – B, chỉ khác nhau một điều, là Thái Dương nhập miếu, nếu Thái Dương lạc hãm, phần nhiều là viêm não Nhật Bản-B, thời gian ứng nghiệm thường là lúc hạn Tật Ách là Thất Sát hoặc Phá Quân.Thất Sát thường chủ về chứng viêm, Phá Quân chủ về chứng viêm cấp tính.
Chứng miệng méo, miệng chảy nước dãi (không phải do trúng phong), thì xem các tinh hệ chủ về bệnh chủ ở tạng Thận. Có lúc cung Tai Ách ở nguyên cục là Tham Lang, niên hạn ứng nghiệm là lúc cung hạn Tật Ách “Thiên Cơ – Thái Âm”, cũng có lúc ngược lại, nguyên cục là “Thiên Cơ Thái âm”, thời kỳ ứng nghiệm là hạn Tham Lang. Đây là một ví dụ. Hai chứng này đều gặp nhiều Tạp diệu như Thiên hư, Thiên sứ, Thiên Riêu, thì phải lưu ý.
Trong số các bệnh hệ thần kinh, có bệnh “rỗng tủy sống” (syringomyelia), xem hệ “Thiên đồng – Cự Môn” và hệ “Thất Sát – Phá Quân”. Người bệnh thường cảm thấy chân tê, không có cảm giác, nếu nghiêm trọng các ngón tay ngón chân có thể bị co quắp, hoặc tê liệt phần mặt. Cổ nhân cho rằngThất Sát, Phá Quân là sao chủ về tổn thương, tàn tật, nguyên nhân có liên quan đến chứng bệnh này.
Ngoài ra còn có bệnh múa tay múa chân (ST. Vitu’s dance), người bệnh không thể kiểm soát hoạt động của chân tay, thường có một số động tác nhanh không tự chủ, có lúc thì mắt máy giật, nhíu may, lè lưỡi, bệnh tình tuy không đau, nhưng rất phiền phức. Tinh hệ chủ về chứng này là Tham Lang đồng cung với Địa không, Địa kiếp, lại gặp thêm Kình dương, Thiên sứ, có lúc là Thiên đồng Hóa Kỵ đồng cung với Hỏa linh, Linh tinh, Địa không, Địa kiếp, cũng chủ về chứng này, nhưng cung Tai Ách của nguyên cục phải là Kình dương ở cung Ngọ, cũng là một nhân tố quan trọng chủ về chứng này.
Đau dây thần kinh tam thoa, tinh hệ chủ yếu là “Thái Dương – Thiên Lương”, có Hỏa Linh hội chiếu hoặc đồng độ, lại gặp thêm Thiên thương, còn có Thiên Tướng bị cách “Hình Kị giáp ấn” hội chiếu Cung Mệnh. Đều chủ về chứng bệnh này.
Tinh hệ chủ về liệt thần kinh mặt, và tinh hệ chủ về đau dây thần kinh tam thoa rất khó phân biệt. Điều cần chú ý là, Kình dương phần nhiều chủ về tê liệt thần kinh mặt, tinh hệ ứng nghiệm phát bệnh phần nhiều là Thiên Cơ, còn đau dây thần kinh tam thoa thì không phải vậy.
Bệnh thiên đầu thống mang tính thần kinh, thì xem tinh hệ “Thiên đồng -Thiên Lương”, tạp diệu hội hợp phần nhiều có Thiên nguyệt, Thiên hình. Có lúc là “Thiên Cơ – Cự Môn” đồng cung với Hỏa tinh cũng chủ về bệnh xuất huyết não, khác với bệnh thần kinh đơn thuần, phân biệt chủ yếu là tinh hệ “Thiên Cơ – Cự Môn” có biểu hiện choáng ngất.
Nếu tinh hệ “Thiên Cơ – Cự Môn” mà Thiên Cơ Hóa Kỵ, còn gặp thêm Thiên hư, thì càng ứng nghiệm.
Bàn tay chân run mang tính thần kinh, thì xem tinh hệ “Thiên đồng – Cự Môn”, cũng có quan hệ với Đà la và Cô thần.
Bệnh tay chân run do trúng độc, thì xem tinh hệ “Thái Dương – Thiên Lương”, có Thiên nguyệt cùng bay đến tì càng đúng. Do trúng độc cũng có thể gây ra chứng tắc ruột, thời kỳ ứng nghiệm phải xem cung hạn Cự Môn
Viêm da mang tính thần kinh là tinh hệ “Liêm Trinh – Thiên Tướng”, thời kỳ ứng nghiệm ắt cung hạn phải gặp Thiên Cơ, Thiên Đồng.
Cơ quan thuộc hệ tiêu hóa, bao gồm Trường (ruột), Vị (dại dày), Can (gan), Đảm (mật). Theo chứng nghiệm của Vương Đình Chi, có thể phân chia như sau
Vị hàn, thòng dạ dày (sa bao tử), thì xem Thiên Phủ thuộc loại “kho lộ”, “kho rỗng”, hoặc Tử vi là cách “tại dã cô quân”, nhưng không được có Hỏa tinh đồng độ mới đúng, có Hỏa tinh thì nhuyễn hóa thành chứng viêm.
Nếu tinh hệ “Tử vi – Thiên Tướng” thủ cung Tai Ách, thì thường là Vị hàn, buồn nôn, hoặc tiêu chảy thuộc chứng Hàn, Thiên Phủ đồng cung với Hữu bật, phần nhiều là sa bao tử.
Chứng vị hàn cũng có thể là chứng dạ dày dư acid, các sao ứng nghiệm làThiên Phủ gặp Thiên Lương, Phá toái, Âm sát, gặp Liêm Trinh Hóa Kỵ thì bệnh rất nghiêm trọng, có thể phát triển thành chứng đay dạ dày, thần kinh dạ dày quá mẫn cảm.
Nếu là viêm dạ dày, thì xem Thiên Cơ hoặc Cự Môn. Thiên Cơ thì chủ về bệnh mãn tính, thường còn chủ về đau Gan. Cự Môn đồng cung với Hỏa linh thì chủ về viêm dạ dày cấp tính, hay viêm đại tràng cấp tính. Nếu tinh hệ “Thiên Cơ – Cự Môn” đồng độ, nguy cơ bị viêm dạ dày hay viêm đại tràng rất lớn. Có sao Lộc thì giảm nhẹ, không có sao Lộc mà còn Hóa Kỵ thì càng nặng thêm. Nhưng nếu có Lộc thì thường chủ về bệnh Trường Vị bất hòa, mức độ nhẹ thì viêm dạ dày cấp tính.
Bệnh viêm ruột thừa cấp tính thì xem Thiên Lương gặp Kình dương, hay Thất Sát gặp Kình dương, hoặc Phá Quân gặp Kình dương. Trường hợp Phá Quân gặp Kình dương cũng chủ về viêm ruột kết, viêm đại tràng cấp tính
“Thiên đồng – Thiên Lương” đồng độ, cũng chủ về bệnh dạ dày, phần nhiều thuộc chứng hàn. Nếu có Thiên mã đồng độ, lại gặp thêm Hỏa tinh, Linh tinh, thì phần nhiều là rối loạn tiêu hóa, hoặc tiến triển thành tiêu chảy.
Tử vi cũng chủ về tiêu chảy, nhưng khác tính chất. Tiêu chảy của Tử vi thông thường là hấp thụ không tốt, còn tiêu chảy của tinh hệ “Thiên đồng -Thiên Lương” là không tiêu hóa được.
Xơ gan thì xem Thiên Cơ, cũng xem Thất Sát ở hai cung Dần và Thân, nhưng trường hợp sau phần nhiều là viêm gan siêu vi. Hễ Thiên Cơ đồng cung với Phỉ Liêm, gặp các sao Sát – Kị, còn lại gặp thêm các sao Hư, Hư hao, Hao, Thiên nguyệt, phần nhiều chủ về gan nhiễm ấu trùng (Clonorchisốis) dẫn đến sơ hóa.
Nếu sơ gan do ống mật tắc nghẽn gây ra, thì xem Thiên Tướng, có Đà la đồng độ thì càng đúng.
Ống mật tắc nghẽn thường do sỏi mật gây ra, tinh hệ ứng nghiệm là “Liêm Trinh – Thiên Tướng” đối nhau với Phá Quân có Sát tinh đồng độ.
Giun chui ống mật (gây nên sỏi mật), ngoại trừ Thiên Tướng, Đà la, còn phải xem Phỉ liêm. Hễ bệnh liên quan đến ấu trùng, giun, đều phải xem Phỉ Liêm và Thiên Nguyệt.
Có lúc Cự Môn cũng chủ về bệnh túi mật, thì vẫn lấy cung hạn Thiên Tướng làm thời kỳ ứng nghiệm, nhất là tinh hệ “Liêm Trinh – Thiên Tướng” thì càng đúng.
Bệnh ở hậu môn chủ yếu xem Thiên đồng, phối với tạp diệu thì xem Âm sát, Long đức, Phá toái.
Trúng độc đường tiêu hóa khác với trúng độc mang tính thần kinh. Trường hợp sau có thể ví dụ là sử dụng ma túy, trường hợp trước chỉ là ăn uống trúng độc. Cung Tật Ách gặp Thiên Tướng bị cách “Hình Kị giáp ấn”, Thiên Phủ lại không gặp sao Lộc, hoặc gặp sao Lộc mà đồng thời gặp Kình Đà, thì đều phải chú ý vấn đề ẩm thực. Nếu lại gặp Liêm Trinh Hóa Kỵ, thì càng phải đề phòng độc tố thức ăn nhiễm vào máu.
Nhóm bệnh này chủ yếu là bệnh tim mạch, huyết áp, phần nhiều xem Thái Dương, kế đến là Thiên Tướng. Nhưng bệnh hệ tuần hoàn có khi do bệnh hệ thần kinh gây ra, Đông y gọi là “Tâm Thận bất giao”, hoặc suy nhược thần kinh, có thể dẫn đến tâm thần phân liệt, nhịp tim rối loạn, các chứng bệnh này lại không liên quan đến Thái Dương hoặc Thiên Tướng, bạn đọc có thể tham khảo ở mục đã thuật ở trước.
Thái Dương ở cung vượng, lại gặp Quyền – Lộc, cũng có thể chủ về huyết áp cao, không nhất định phải gặp Sát tinh mới đúng.
Thái Dương Hóa Kỵ, hoặc Thái Dương có Tứ Sát tinh giao hội, cũng là điềm tượng huyết áp cao. Nếu là tổ hợp “Thái Dương – Cự Môn” thì càng đúng.
Tổ hợp “Thái Dương – Thiên Lương” cũng chủ về trúng phong, bại liệt, vì Thiên Lương có tính chất bệnh kinh niên. Tinh hệ này cũng thường gặp các sao Thiên Nguyệt, Thiên Hình hội hợp.
Thiên Tướng chủ về Thận, cho nên lúc Thiên Tướng bị cách “Hình Kị giáp ấn”, hoặc có các sao hung sát trùng trùng giao hội, cũng chủ về huyết áp cao, cũng có thể là đau tim. Nếu Cung Tật Ách của nguyên cục, có khuynh hướng chủ về bệnh hệ thần kinh, lúc đến niên hạn Thái Dương thủ cung Tai Ách, cũng dễ bị chứng huyết áp cao.
Còn chứng huyết áp thấp có liên quan đến hệ nội tiết, cũng xem tinh hệ “Thái Dương – Thiên Lương”, nhưng thường có Địa không, Địa kiếp hội hợp. Một tinh hệ quan trọng khác là “Thái Dương – Thái âm”, hễ có chứng trạng âm dương bất hòa, thì cũng là rối loạn nội tiết.
Cự Môn đồng độ với Đà la, hội Thái Dương có Sát tinh, có lúc chủ về đau thắt ngực (angina pectoris), xơ vữa động mạch. Nhưng cũng có thể là bán thân bất toại, tức trúng phong (tai biến mạch máu não)
Tinh hệ “Thiên đồng – Thiên Lương” cũng chủ về đau thắt ngực, nếu hội các sao Hình – Kị. Thì chủ về tắc nghẽn cơ tim, tắc nghẽn mạch máu.
Bệnh hệ tuần hoàn cũng bao gồm các chứng thiếu máu, tăng bạch cầu, các chứng này thì xem Liêm Trinh, nếu Liêm Trinh Hóa Kỵ, có các ác diệu sát tụ hội, thì chứng bệnh càng nghiêm trọng.
Nếu do trúng độc gây ra thiếu máu, thì vẫn xem Thiên Lương, hoặc xem tinh hệ “Thái Dương – Thái âm”.
Thiếu tiểu cầu da có thể bị bầm tím, chứng bệnh này lấy Thiên đồng Hóa Kỵ làm điềm tượng. Có lúc Thái Dương Hóa Kỵ ở nguyên cục có Âm Sát đồng độ, niên hạn ứng nghiệm là lúc đến Cung Tật Ách Thiên đồng Hóa Kỵ gặp các sao Sát Hình. Hoặc Thiên đồng của nguyên cục Hóa Kỵ, niên hạn ứng nghiệm là lúc đến cung hạn tật ách Liêm Trinh đồng cung với Âm Sát. Nhưng trường hợp sau có sự khác biệt tinh tế, y học gọi là da bị bầm tím có tính mẫn cảm, không có liên quan đến tình trạng thiếu tiểu cầu.
Nhóm bệnh này chủ yếu xem Vũ Khúc, kế đến là Thiên Đồng. Nếu Thất Sát,Phá Quân hội hợp với các sao Sát – Kị, nhất là Vũ Khúc Hóa Kỵ, thì bệnh tình nghiệm trọng, hoặc bị ác tính.
Nhưng cũng có một số bệnh chứng không có liên quan đến các tinh hệ chủ về bệnh đường hô hấp như đã thuật ở trên. Như hen suyễn thường xem Thái âm, Thiên Lương, nếu hen suyễn là tính bẩm sinh thì xem tinh hệ “Liêm Trinh – Thất Sát”. Trường hợp trước là bệnh ở ống phế quản, trường hợp sau là bệnh dị ứng bẩm sinh.
Nếu là bệnh viêm ống phế quản cấp tính, thì lấy tinh hệ Vũ Khúc gặp Hỏa tinh, Linh tinh làm ứng nghiệm, có Thiên mã cùng bay đến, thì bệnh tình càng nghiêm trọng. Bệnh viêm ống phế quản mãn tính cũng có thể xem Vũ Khúc, nhưng nếu do ngoại vật xâm nhập lâu ngày mà gây ra bệnh, như người hút nghiện thuốc lá, hay công nhân làm việc ở nơi nhiều bụi, thì xem Thiên đồng, Cự Môn có các sao Sát – Kị tụ tập, có thể phát triển thành bệnh tràn khí phổi (pulmonary emphysema)
Ho gà thì lấy Thiên Lương làm điềm tượng, nhất là tinh hệ “Thiên đồng -Thiên Lương” gặp Sát tinh, có Thiên mã, phần nhiều chủ về bệnh ho gà. Khác với tắc nghẽn cơ tim là tinh hệ “Thiên đồng – Thiên Lương” gặp Sát tinh, mà không có Thiên mã.
Lao phổi (phổi kết hạch) thì xem tinh hệ “Liêm Trinh – Thất Sát”, hoặc tinh hệ “Vũ Khúc – Thất Sát”. Nếu nguyên cục gặp tinh hệ này, đến đại hạn hoặc lưu niên, gặp cung hạn tật ách Thái âm Hóa Kỵ hội Hỏa Linh là bệnh tình nghiêm trọng, thường phát triển đến giai đoạn cuối.
Bệnh tràn khí phổi cũng xem Vũ Khúc, nếu Vũ Khúc Hóa Kỵ, bị Liêm Trinh Hóa Kỵ của cung hạn xung hội, lại gặp các sao Thiên hình, Thiên nguyệt, Âm sát thì ứng nghiệm.
Một nhóm sao khác chủ về tràn khí phổi, là Phá Quân đồng cung với Văn khúc Hóa Kỵ. Còn Vũ Khúc Hóa Kỵ đồng cung với Văn khúc Hóa Kỵ thì chủ về kéo đàm, hen suyễn.
Nếu bệnh ở cổ họng thông thường là viêm amidan, xem Cự Môn Hóa Kỵ thì càng đúng. Nếu là bệnh bạch hầu, thì xem tình hình Thái âm và Cự Mônxung hội, nếu các sao Sát – Kị trùng trùng thì ứng nghiệm. Nếu là viêm họng thì lấy Địa không, Địa kiếp, Đại hao làm biểu trưng.