Rủi ro bảo hiểm là gì? Nội dung báo cáo quản trị rủi ro (Hình từ Internet)
Rủi ro bảo hiểm là gì? Nội dung báo cáo quản trị rủi ro (Hình từ Internet)
Báo cáo quản trị rủi ro phải bao gồm các nội dung sau:
- Đánh giá mức độ đầy đủ của hoạt động quản trị rủi ro, xác định nguồn lực tài chính cần có để quản lý hoạt động kinh doanh trong khả năng chấp nhận rủi ro và các kế hoạch kinh doanh của doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp tái bảo hiểm, chi nhánh nước ngoài;
- Đánh giá chi tiết về từng loại rủi ro trọng yếu của doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp tái bảo hiểm, chi nhánh nước ngoài và các thay đổi rủi ro trong hoạt động;
- Cách thức quản lý từng loại rủi ro trọng yếu của doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp tái bảo hiểm, chi nhánh nước ngoài;
- Kết quả kiểm tra sức chịu đựng và phân tích khả năng tiếp tục hoạt động trong các tình huống bất lợi đối với hoạt động kinh doanh.
(Khoản 1 Điều 8 Thông tư 70/2022/TT-BTC)
Căn cứ tại khoản 2 Điều 5 Thông tư 70/2022/TT-BTC, các quy định nội bộ về quản trị rủi ro bao gồm các nội dung sau:
- Chức năng nhiệm vụ, cơ chế phân cấp, thẩm quyền quyết định và trách nhiệm của cá nhân, bộ phận trong hoạt động quản trị rủi ro của doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp tái bảo hiểm, chi nhánh nước ngoài;
- Quy trình xác định, đo lường, theo dõi, giám sát rủi ro liên quan đến các rủi ro trọng yếu; báo cáo trao đổi thông tin, phản hồi về các thay đổi rủi ro và xử lý rủi ro;
- Các hạn mức rủi ro cụ thể đối với từng loại rủi ro trọng yếu và các rủi ro có liên quan, mối tương quan giữa các rủi ro đó.
Các hạn mức rủi ro phải bảo đảm tuân thủ khẩu vị rủi ro và quy định nội bộ về quản trị rủi ro; được đánh giá lại định kỳ tối thiểu một năm một lần và đột xuất khi có thay đổi lớn ảnh hưởng đến rủi ro trong hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp tái bảo hiểm, chi nhánh nước ngoài;
- Các biện pháp kiểm soát rủi ro phát sinh từ hoạt động kinh doanh và kiểm soát các cá nhân, bộ phận tham gia vào các hoạt động đó.
- Kiểm tra sức chịu đựng đáp ứng quy định tại Điều 7 Thông tư 70/2022/TT-BTC.
- Kế hoạch dự phòng cho các tình huống khẩn cấp xảy ra nhằm bảo đảm tính liên tục trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp tái bảo hiểm, chi nhánh nước ngoài.
Kế hoạch này phải được Hội đồng quản trị, Hội đồng thành viên của doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp tái bảo hiểm, công ty mẹ của chi nhánh nước ngoài thông qua;
- Cơ chế báo cáo nội bộ về quản trị rủi ro.
NCS. Đỗ Thu Hằng - Học viện Ngân hàng
Thị trường bảo hiểm Việt Nam đang từng bước hội nhập sâu, rộng với thị trường bảo hiểm khu vực và quốc tế thông qua cơ chế hợp tác thương mại, dịch vụ tài chính đa phương hoặc song phương, với các nước ASEAN, Liên minh châu Âu, Hoa Kỳ, Nhật Bản…Tuy nhiên, đến nay thị trường này còn tiểm ẩn những nguy cơ rủi ro, bởi do năng lực quản lý rủi ro của doanh nghiệp bảo hiểm còn yếu; tình trạng trục lợi bảo hiểm ngày càng gia tăng… Khảo sát một số dấu hiệu nhận biết rủi ro bảo hiểm, bài viết đề xuất hướng quản trị rủi ro bảo hiểm cho doanh nghiệp.
Một số dấu hiệu nhận biết rủi ro bảo hiểm
Rủi ro bảo hiểm là các rủi ro liên quan đến khả năng một công ty bảo hiểm có thể gánh chịu tổn thất do phí bảo hiểm thu được không đủ bù đắp các chi phí bồi thường các sự kiện bảo hiểm. Những rủi ro này liên quan đến tất cả các quy trình trong một doanh nghiệp bảo hiểm (DNBH), mỗi rủi ro có khả năng xảy ra và mức độ ảnh hưởng khác nhau. Từ rủi ro trong bảo hiểm (khai thác, dự phòng, tái bảo hiểm); Rủi ro tài sản (thị trường, tín dụng, thanh khoản) cho đến rủi ro trong hoạt động (phát triển sản phẩm, bán hàng và phân phối, khai thác, bồi thường)…
Trên thế giới, đã có nhiều tổ chức quốc tế đánh giá, xếp hạng DN theo lĩnh vực hoạt động, trong đó có lĩnh vực bảo hiểm như A.M.Best, Standard & Poor’s… Các tổ chức này hoạt động một cách khách quan, không phụ thuộc vào bất kỳ một công ty bảo hiểm nào, hàng năm, họ căn cứ vào khả năng tài chính, chỉ tiêu chất lượng hoạt động của các công ty bảo hiểm ở nhiều khu vực trên thế giới để có đánh giá, phân loại, xếp hạng cho các công ty bảo hiểm theo một chuẩn mực quy ước. Đây là cơ sở để khách hàng quyết định lựa chọn nên tham gia bảo hiểm với công ty bảo hiểm này hay với một công ty bảo hiểm khác nhằm hạn chế rủi ro.
Còn ở Việt Nam, hiện nay chưa có một tổ chức nào đánh giá chất lượng hoạt động (xếp loại, xếp hạng) của các công ty bảo hiểm. Vì vậy nên khả năng tài chính của DNBH Việt Nam không tương xứng với giá trị tài sản được bảo hiểm mà vẫn nhận bảo hiểm thường xuyên diễn ra, dẫn đến trách nhiệm và lợi ích của công ty bảo hiểm không tương xứng. Chưa kể, việc cạnh tranh không lành mạnh khi hạ phí bảo hiểm dưới mức an toàn, tăng hoa hồng quá mức quy định… cũng đã làm tăng rủi ro cho các DNBH. Nguy cơ phá sản, làm ăn thua lỗ, không thu xếp được tái bảo hiểm, ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh là rất lớn.
Khảo sát cho thấy, do đặc thù của ngành Bảo hiểm, các đơn bảo hiểm có hiệu lực và kết thúc tại nhiều thời điểm khác nhau, cho nên nếu chỉ nhìn vào các con số tài chính của một DNBH, thì khó có thể nhận thấy hết được đầy đủ bức tranh hoạt động kinh doanh, hiệu quả nghiệp vụ cũng như xu thế phát triển của DN đó. Ví dụ, một tỷ lệ tổn thất của ô tô là 50%, nếu được hiểu theo nghĩa thông thường là trong năm tài chính này, giả sử tổng doanh thu phí thu về là 300 tỷ đồng thì DN phải trả tiền bồi thường cho khách hàng là 150 tỷ đồng thì vẫn chưa đầy đủ. Thực chất, các con số đó còn phản ánh thêm nhiều điều khác nữa. Chẳng hạn, trong con số 150 tỷ đồng bồi thường, có nhiều vụ đã phát sinh và thuộc các hợp đồng bảo hiểm đã cấp và hoạch toán từ năm trước; đồng thời, ngoài 150 tỷ đồng đã chi trả, có thể còn nhiều hồ sơ bảo hiểm đã phát sinh nhưng chưa được giải quyết và phải được dự phòng và tính toán đầy đủ.
Bên cạnh đó, con số doanh thu phát sinh trong năm cũng cần được tính toán phí thực hưởng để có thể phản ánh phần doanh thu phù hợp với thời gian hiệu lực của hợp đồng. Ví dụ, hợp đồng bảo hiểm cấp vào tháng 12 của năm thì thực chất, phần lớn xác xuất rủi ro phát sinh theo đơn này sẽ rơi vào năm sau, do vậy, nếu tính doanh thu theo năm nghiệp vụ thì công ty bảo hiểm chỉ được hưởng doanh thu theo tỷ lệ số thời gian còn lại của năm đó. Như vậy, số liệu doanh thu phí cũng như tỷ lệ bồi thường cần phải được thống kê theo năm nghiệp vụ để phản ánh trung thực hơn bức tranh về hiệu quả khai thác, từ đó phản ánh trung thực hơn hiệu quả khai thác của DN qua từng giai đoạn, cũng như trách nhiệm bồi thường của các DN.
Ngoài tiềm ẩn rủi ro về vốn, còn có những rào cản mà các DNBH không dễ gì giải quyết trong ngày một ngày hai, đó là vấn đề trục lợi bảo hiểm và năng lực quản lý rủi ro của DNBH. Cụ thể:
Trục lợi bảo hiểm là hành vi làm giảm lợi nhuận, khiến cho hiệu quả sản xuất kinh doanh bị hạn chế, thậm chí có những tác động xấu đến uy tín của DN bảo hiểm. Thế nhưng, trục lợi bảo hiểm đã và đang diễn ra hết sức phức tạp, tinh vi.
Tình trạng khách hàng tham gia bảo hiểm ở nhiều công ty bảo hiểm tại cùng một thời điểm để trục lợi không phải là hiếm. Điển hình là vụ ông Nguyễn Văn U. ở Hải Dương tham gia bảo hiểm nhân thọ tại hai DNBH lớn với tổng số tiền trên 1 tỷ đồng, cho dù đã biết mình mang căn bệnh nan y không thể chữa khỏi… đã được báo giới thông tin gần đây.
Đối với một số lĩnh vực, hành vi trục lợi cũng thường xuyên xảy ra, như: Trốn tránh trách nhiệm đóng phí bảo hiểm đối với trường hợp hàng hóa được yêu cầu bảo hiểm trong hành trình vận chuyển nhưng khách hàng chậm đóng phí bảo hiểm. Khi biết hàng hóa về đến nơi an toàn, khách hàng lại xin hủy đơn bảo hiểm hoặc hủy hợp đồng bảo hiểm. Có trường hợp, khách hàng hay tin hàng hóa vận chuyển bị tổn thất mới đến mua bảo hiểm, thông đồng với cán bộ của DNBH để mua bảo hiểm và nhận bồi thường. Trường hợp khác bị phát hiện khi hàng hóa được mua bảo hiểm vận chuyển trên một con tàu không có thực. Tương tự, trong bảo hiểm xe cơ giới, bảo hiểm tàu thuyền, trục lợi bảo hiểm cũng được thực hiện thông qua việc hợp lý hóa ngày và hiệu lực bảo hiểm. Hiện tượng tạo hiện trường giả các vụ tai nạn xe cơ giới, cháy hoặc chìm tàu, cố ý gây tai nạn trong bảo hiểm tài sản và bảo hiểm trách nhiệm, gian lận đối với người thứ ba (không bồi thường cho người thứ ba), mặc dù đã nhận tiền bảo hiểm, hoặc đã đòi người thứ ba có liên đới bồi thường, song không khai báo với doanh nghiệp bảo hiểm… vẫn còn xảy ra.
Bên cạnh đó, vấn đề thiếu hụt nhân sự được đào tạo và có kinh nghiệm vẫn luôn là một khó khăn đối với các DNBH. Khi thiếu các cơ sở đánh giá rủi ro, thiếu các tính toán thống kê đầy đủ trên cơ sở rủi ro phù hợp với từng DN thì việc định phí vẫn chủ yếu dựa trên cơ sở kinh nghiệm và áp lực cạnh tranh trên thị trường. Đó cũng lý do vì sao, một số nghiệp vụ như bảo hiểm ô tô xe máy, tài sản, thân tàu … DN biết lỗ nhưng vẫn làm và cạnh tranh khốc liệt bằng cách giảm phí, tăng chi phí bán hàng…
Trong bảo hiểm nhân thọ, tình trạng các đại lý chạy theo doanh thu, không thực hiện đúng các quy trình tác nghiệp, cố tình làm sai lệch hồ sơ giải quyết quyền lợi bảo hiểm… ngày càng phổ biến, ảnh hưởng đến hình ảnh, uy tín của DNBH.
Nguyên nhân dẫn tới các tình trạng trên một phần là do mô hình quản trị của DNBH phi nhân thọ hiện nay đang tạo sự mâu thuẫn, tạo sự cạnh tranh giữa các phòng ban, giữa các chi nhánh khi các doanh nghiệp phân cấp không rõ ràng, chặt chẽ. Mô hình phân tán, việc giao quyền lực cho các chi nhánh tạo ra sự chủ động trong kinh doanh, nhưng cũng tăng rủi ro trục lợi. Đặc biệt là do hệ thống quản trị rủi ro, kiểm tra, kiểm soát nội bộ mang tính hình thức, chưa thực chất.
Giải pháp giúp phòng tránh rủi ro hiệu quả
Bán bảo hiểm là bán lời hứa. Trách nhiệm bồi thường không chỉ nhắm đến việc “mua dễ, khó đòi” mà chủ yếu liên quan đến cơ chế quản lý rủi ro của DNBH trên cơ sở vốn điều lệ, tổng tài sản, kết hợp với các chương trình tái bảo hiểm bảo vệ… để có thể hiện thực hóa lời hứa với khách hàng. Do vậy, cần xem xét, điều chỉnh lại quy trình quản trị rủi ro, quản trị thương hiệu, dịch vụ khách hàng của các DNBH. Các cơ quan quản lý cần có những nghiên cứu, phân loại các DNBH, áp dụng các quy định về phạm vi khai thác sao cho phù hợp với năng lực của các DN này, có như vậy mới có thể bảo vệ quyền lợi của khách hàng trong trường hợp xấu nhất, đồng thời giúp cho thị trường cạnh tranh lành mạnh hơn, ổn định hơn.
Muốn vậy, chúng ta cần tập trung triển khai thực hiện một số giải pháp phòng tránh rủi ro như sau:
Thứ nhất, đối với cơ quan quản lý nhà nước:
- Cần sớm rà soát và hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật, nghị định, thông tư liên quan đến hoạt động kinh doanh bảo hiểm; kiểm tra giám sát chặt chẽ hoạt động cũng như áp dụng các biện pháp chế tài xử phạt nghiêm minh đối với hành vi vi phạm pháp luật của các DN kinh doanh bảo hiểm và các cá nhân, đơn vị tham gia bảo hiểm.
- Đối với những nghiệp vụ bảo hiểm mà pháp luật quy định bắt buộc khách hàng phải tham gia cần có sự phối hợp với các cơ quan chức năng, để kiểm tra theo dõi và đưa ra những mức chế tài xử phạt thích đáng cao hơn mức phí bảo hiểm mà họ tham gia.
- Cần chú trọng đầu tư công nghệ thông tin, triển khai hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO nhằm nâng cao khả năng quản trị DN;
- Cần kiện toàn đội ngũ nhân sự theo hướng chuyên nghiệp, không chỉ thành thục và giỏi về chuyên môn mà còn phải có đạo đức nghề nghiệp;
- Áp dụng phương thức thanh toán điện tử qua ngân hàng, giảm bớt thu – chi bằng tiền mặt;
- Áp dụng hệ thống cảnh báo rủi ro đối với thị trường bảo hiểm;
- Thường xuyên tổ chức theo dõi, quản lý và giám sát nhân viên, hoạt động của đại lý và môi giới bảo hiểm;
- Tổ chức kiểm tra, giám sát và nâng cao khả năng đánh giá rủi ro trước và sau khi nhận bảo hiểm. Việc kiểm soát rủi ro phải được thực hiện theo một quy trình chặt chẽ. Tổng quát, quy trình kiểm soát, quản lý rủi ro cơ bản bao gồm những bước chính được trình bày cụ thể ở Hình 1. Ở mức chi tiết hơn, quy trình quản lý rủi ro bao gồm các bước cùng với trình tự xử lý và mối quan hệ giữa chúng như trình bày ở Hình 2.
- Hoàn thiện các yếu tố hình thành quản lý rủi ro hiệu quả. Quản trị công ty hiệu quả phụ thuộc vào tầm nhìn, nhận thức và sự tham gia mạnh mẽ của lãnh đạo cao cấp trong quá trình điều hành; quá trình tác nghiệp mạch lạc, rõ ràng với cơ chế phân quyền và chịu trách nhiệm minh bạch.
- Nâng cao chất lượng hoạt động đầu tư phát triển nguồn vốn để bù đắp những rủi ro có tính chất thảm họa. DNBH cũng cần bên mua bảo hiểm cung cấp đầy đủ, trung thực các thông tin liên quan đến việc giao kết và thực hiện hợp đồng bảo hiểm, đồng thời có sự kiểm tra tính trung thực của thông tin đó. Cần đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng bảo hiểm trong một số trường hợp: Khi bên mua bảo hiểm không thực hiện, thực hiện không đúng các nghĩa vụ cam kết, trường hợp rủi ro gia tăng và bên mua bảo hiểm không chấp nhận sự tăng phí bảo hiểm. Có quyền từ chối bồi thường, từ chối trả tiền bảo hiểm khi sự kiện xảy ra bị loại trừ, không thuộc phạm vi trách nhiệm bảo hiểm. Ngoài ra, cần yêu cầu bên mua bảo hiểm thực hiện các biện pháp đề phòng rủi ro, hạn chế tổn thất nhằm nâng cao tính trách nhiệm của bên mua bảo hiểm, tránh tình trạng ỷ lại hoàn toàn vào DNBH…
1. TS. Nguyễn Ngọc Định, Lý thuyết bảo hiểm, NXB Tài chính, năm 1999;
2. Học viện Tài chính, Kỷ yếu hội thảo khoa học “Giải pháp nâng cao hiệu quả quản trị DNBH ở Việt Nam”, năm 2015;
3. PGS., TS. Lê Văn Ái, Thực trạng trục lợi bảo hiểm và giải pháp ngăn ngừa, Học viện Tài chính, năm 2015.
4. ThS. Trịnh Thanh Hoan, Cảnh báo rủi ro đối với các DNBH Việt Nam, năm 2015.
5. Các website: vnpi.vn, baohiem.pro.vn, avi.org.vn, luatminhkhue.com.vn…